Tác giả Nguyễn Phụng, xuất thân từ trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng,
tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn,
Duke University North Carolina, nghỉ hưu sau ba mươi năm giảng dạy tại NC A&T State University.
***
1
Cùng với các ngành khác
trong quân lực Miền Nam, Không Quân hình thành và phát triển nhanh trong những
năm bình yên cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Phi công được nhóm người
trẻ tuổi nhắc đến nhiều nhất trong thời khá thanh bình đó có lẽ là Toàn Phong
Nguyễn Xuân Vinh, tác giả Đời Phi Công (1960).
Trong Đời Phi Công, phi công Toàn Phong
yêu đời lạc quan, nhìn chiếc máy bay “hiền lành đậu dưới nắng hè” và quả quyết
rằng “dù gian-nan muôn trùng … cũng sẽ mỉm cười dấn bước…” khi viết thư cho Phượng,
cô sinh viên y khoa Sài Gòn. Toàn Phong hy vọng và tin tưởng về một tương lai đất
nước tươi sáng với nhiều xây dựng, phát triển khắp nơi. Toàn Phong cất cánh và bay
trong bình an, “đời tươi quá, đẹp quá, cần lái nằm gọn trong tay, chiếc phi cơ
ngoan ngoãn tuân theo nhịp thở của tay ga, của chân nhẹ trên bàn đạp”. Mấy năm
bình yên ngắn ngủi đó lùi mau vào lịch sử. Từ 1970, phi công Vĩnh Hiếu phải bay
trong lửa đạn mịt mù, tương lai anh đếm từng ngày một, mạng sống anh như cái chuông
treo trên sợi chỉ mành. Chiếc máy bay trực thăng rất đắc dụng trong chiến trường
du kích thời nào nay đã kém đi phần hữu hiệu. Cuộc tranh chấp giới hạn mở rộng
nhanh chóng thành cuộc chiến quy ước; với vũ khí tối tân do toàn thể khối cộng
sản cung cấp cho địch quân (như súng lớn đủ loại, đại bác phòng không 37, hỏa
tiển tầm nhiệt SA-7…) chiếc máy bay trực thăng võ trang nặng nề chậm chạp trở
thành mục tiêu rất dễ bị tiêu hủy. Đời
Phi Công của Toàn Phong nay là Trên
Vòm Trời Lửa Đạn của Vĩnh Hiếu. Tuy không lạc quan như Toàn Phong nhưng Vĩnh
Hiếu chẳng hề bi quan và chiến đấu rất oai hùng.
Toàn Phong kết thúc cuộc sống
đi mây về gió với mấy giòng thư ngắn rất thơ -- “gió ơi ngừng lại cánh chim bằng” -- viết cho Phượng từ Quân Y Viện
Nguyễn Huệ sau lần bị thương nhẹ khi phi cơ hạ cánh xuống bãi biển và làm sập một
căn nhà. Vĩnh Hiếu kết thúc đời phi công với nỗi đau chiến bại, sự tan rã của
Phi Đoàn Thần Tượng, sụp đổ của Miền Nam thân yêu, và cuộc sống tha phương nơi
xứ lạ quê người.
Trên
Vòm Trời Lửa Đạn nhắc người viết nghĩ đến Saint-Exupéry, tác
giả Pilote de Guerre (Phi Công Thời Binh Lửa) và hoàn cảnh đặc
biệt của Vĩnh Hiếu và người phi công Pháp này. Năm 1940 sau khi Đức chiếm Pháp,
Saint-Exupéry được trưng dụng vào một phi đoàn thám thính gồm 23 phi công. Lực
lượng phòng không của Đức quá mạnh, chỉ trong ba tuần hoạt động, 17 phi công của
phi đoàn đã bị hy sinh. Saint-Exupéry chiến đấu với cái chết gần kề và ông tin
rằng rồi ông sẽ bị bắn rơi như đồng đội; tuy vậy, ông không sợ hãi vì ông ta
chiến đấu cho giá trị nhân bản, tự do, lý tưởng dân chủ cho Pháp và nhân loại…
Cái chết của ông là một cái chết ý nghĩa. Cũng như Saint-Exupéry, Vĩnh Hiếu chiến
đấu trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm. Với đại bác đủ cỡ và hỏa tiển tối tân do
các nước cộng sản Liên-sô, Tàu, Đông Đức, Tiệp Khắc… ồ ạt cung cấp, khả năng
phòng không của Việt cộng trở nên hùng hậu. Mạng sống của Vĩnh Hiếu vì thế rất
mong manh như ngọn đèn trước gió, nhưng anh không hề ngần ngại hay sợ hãi vì,
cũng như Saint-Exupéry, anh ta đang chiến đấu cho tự do, cho giá trị nhân bản;
anh chiến đấu để ngăn chận một chủ nghĩa không tưởng, đầy máu lửa. Hình ảnh địch
quân thảm sát dân chúng chạy loạn tại đại lộ kinh hoàng Quảng Trị, chôn sống hàng
ngàn dân vô tội cố đô Huế ám ảnh anh. Anh không ngại bị bắn rơi trên vòm trời đầy
lửa đạn, vì cũng như Saint-Exupéry, cái chết của người chiến sĩ Việt Nam Cộng
Hòa, đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Nước Pháp của Saint-Exupéry
và những người Pháp ham chuộng tự do chiến đấu cho lý tưởng dân chủ, nhưng đó là
một sự chiến đấu vô vọng vì Pháp đã thua cuộc -- 39 triệu dân hoang mang bên
này bờ sông Rhine không thể đương đầu nổi với hơn 70 triệu dân cuồng tín (vì một
chủ nghĩa phi nhân bản, lùa hàng triệu người vào lò hơi độc) bên kia sông. Pháp
không có khả năng để chiến đấu một mình, Pháp cần sự trợ giúp. Trên toàn cõi địa
cầu này chỉ có một quốc gia hùng mạnh có khả năng trợ giúp Pháp bảo vệ lý tưởng
dân chủ, nhưng chẳng may, quốc gia này cứ mãi chần chờ nên quân Đức mặc sức
tung hoành trên đất Pháp và khắp nơi trên Âu châu. Quốc gia hùng mạnh đó là Mỹ
và Saint-Exupéry nghĩ nhiều đến Mỹ. Cũng như Saint-Exupéry, cùng với người Việt
hiếu hòa Miền Nam, Vĩnh Hiếu chiến đấu cho tự do; nhưng đó là cuộc chiến đấu vô
vàn khó khăn, thất bại là một điều tất yếu, chỉ vì, và chỉ vì, thiếu súng đạn. Miền
Nam (chưa đầy 20 triệu dân) một mình trơ
trọi không thể chống chọi lại toàn thể khối cộng sản quốc tế (hơn 2 tỷ dân)
với chủ trương chinh phục và nhuộm đỏ hoàn cầu. Miền Nam là tiền đồn để ngăn chận
làn sóng đỏ, bảo vệ lý tưởng dân chủ, Mỹ từng tin như vậy và họ đã đến trợ giúp
Miền Nam; nhưng rồi vì chút quyền lợi bán nước ngọt coca cola và bánh mì thịt burger
cho Tàu cộng (với một tỷ rưỡi người tiêu thụ, thèm ăn khát uống) họ âm thầm đổi
ý sau mấy chuyến ngoại giao trong đêm tối và rồi quay lưng lạnh lùng ra đi.
Saint-Exupéry thán phục sức
mạnh của quân đội Mỹ và, với tư cách một phi công, chắc đã nhiều lần nghe danh tiếng
của Đệ Nhất Sư Đoàn Không Kỵ, the 1st
Cavalry Division (Airmobile) thuộc quân lực này. Vì sự thán phục đó, ông
qua Mỹ để nói chuyện với quần chúng Mỹ về giá trị tự do và nhân bản mà Pháp
đang chiến đấu, với mục đích thuyết phục Mỹ trợ giúp Pháp. Saint-Exupéry ảnh hưởng
một phần nào đó trong quyết định tham chiến của Mỹ… Khác với Saint-Exupéry,
Vĩnh Hiếu không những nghe danh mà còn trực tiếp chứng kiến sức mạnh vũ bão của
Sư Đoàn Không Kỵ này với hơn 500 phi cơ trực thăng, ba bộ chỉ huy lữ đoàn, có
khả năng tác chiến biệt lập và đảm trách vùng trách nhiệm cấp sư đoàn. Nhưng quân
đội Mỹ và Đệ Nhất Sư Đoàn Không Kỵ bỗng dưng bỏ chiến trường Việt Nam, quay đầu
ra đi; Vĩnh Hiếu và đồng đội chiến đấu một mình, thiếu đạn dược, và rồi chiến bại.
Saint-Exupéry mất tích trong
một chuyến bay trong năm 1944. Ông ta chết hơi sớm, không kịp thấy lý tưởng dân
chủ trở về với Pháp và nhân loại khi quân đội Mỹ tiến vào thủ đô Paris. Vĩnh Hiếu
vẫn còn sống nhăn để đau khổ, để thấy rằng lý tưởng tự do, dân chủ anh hằng ôm ấp
đã tan tành, và trên quê hương Việt Nam khổ nạn, tự do và giá trị con người đã
vĩnh viễn bị dày đạp.
2
Ký sự chiến trường là một
nét đặc biệt của văn chương Miền Nam. Miền Nam tự do, ai muốn viết gì cứ viết
(người viết không phải đi nhận đơn đặt hàng của lãnh tụ rồi mới gồng mình ra tìm
chữ để moi móc, chửi bới, tâng bốc, ca tụng như ở Miền Bắc) và vì chiến sự lan
tràn khắp nơi, phô bày nhiều hiện thực về thân phận con người và sự bi đát của
cuộc chiến. Ngoài những ký giả chiến trường chuyên nghiệp như Nguyễn Tú, Nguyễn
Đạt Thịnh, Phạm Huấn… nhiều tác giả ký sự là những chiến sĩ trực tiếp tham gia
vào cuộc chiến như Phan Nhật Nam (Mùa Hè
Đỏ Lửa), Nguyên Vũ (12 Năm Lính: Đời
Pháo Thủ), Trang Châu (Y Sĩ Tiền Tuyến),
Trương Duy Hy (Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 Hạ
Lào)…
Tại sao các chiến sĩ viết
bút ký chiến trường? Câu hỏi có vẻ ngây ngô nhưng có lẽ cần thiết cho bài viết
ngắn này. Ký giả chiến trường chuyên nghiệp Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận Sài Gòn phải viết nhiều, viết
mau, viết đủ các mặt trận vì độc giả, nhất là độc giả Sài Gòn, đang nóng lòng
muốn đọc. Một số lớn trong số độc giả này cố quên đi cuộc chiến, tìm sự lẫn
tránh qua các truyện kiếm hiệp hào hứng của Kim Dung hay truyện tình lâm ly của
Quỳnh Giao, và chỉ còn biết đối diện với cảnh máu lửa đang lan tràn khắp nơi qua
vài cột báo hàng ngày; mỗi cột báo là một địa danh, một phần đất nước xa xa hay
gần kề, một tin vui chiến thắng, một bâng khuâng về một bước lùi, một tin buồn
vì số tử vong…
Khác với Nguyễn Tú, Phan Nhật
Nam viết bút ký chiến sự cho chính mình, viết để vơi đi nỗi đau xót, bất bình. Trang
bút ký của Phan Nhật Nam là tiếng kinh cầu trong niềm cô đơn tuyệt đối, là những
giọt nước mắt tuôn trào sau bao nhiêu lần cố cầm nín, và là tiếng nức nở thoát
ra từ hàm răng nghiến chặt… Phan Nhật Nam viết để vơi đi nỗi đau vì dân chúng lầm
than hay đồng đội gục ngã và nỗi buồn nhược tiểu -- thân phận hẩm hiu của Miền
Nam và quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước những mưu mô toan tính, đổi chác của
các cường quốc vì quyền lợi riêng của họ.
Nguyên Vũ, tuy cũng một tay
cầm súng một tay cầm bút như Phan Nhật Nam, nhưng khác hẳn với Phan Nhật Nam:
Nguyên Vũ viết để chơi. Đây không phải là một lời khinh bạc nếu hiểu rằng viết cũng như nhiều trò
chơi quen thuộc khác (bia rượu, con bài đen đỏ, nhảy nhót, xóm bình khang…) giúp
người lính tạm quên đi sự nhọc nhằn cùng cực, cảnh khói lửa và sự đe dọa của thần
chết từng ngày. Hiểu như vậy, viết với Nguyên Vũ quả là một trò chơi, một trò
chơi mà anh rất say mê -- đi lính mà không có một thú đam mê thì chắc khó sống.
Chắc vì thế, chỉ trong mười hai năm lính, anh cho ra đời hai mươi ký sự chiến
trường. Sau này, sau ngày tàn cuộc chiến, khi anh vào thư khố quốc gia Pháp,
Archives Nationales de France, tìm tài liệu để viết những nghiên cứu mới như The Other Side of the 1945 Vietnamese
Revolution: The Empire of Vietnam (Phía Bên Kia Cuộc Cách Mạng 1945: Ðế Quốc Việt
Nam) chắc viết bấy giờ không còn là một trò chơi nữa. Và đây là một một điểm
lạ của bút ký chiến trường Miền Nam.
Và Vĩnh Hiếu, bao nhiêu năm
qua rồi từ ngày tàn cuộc chiến (vết mòn chiến xa chắc đã đầy cỏ dại, hố bom đạn
đã thành ao hồ) tại sao bây giờ anh mới viết bút ký? Vĩnh Hiếu chẳng hề thố lộ
tâm tình qua hơn 400 trang giấy chi chít đầy chữ nghĩa, nên mọi câu trả lời dài
hay ngắn chỉ là sự dò la, phỏng đoán. Đây là một phỏng đoán: Nếu đất nước Việt
Nam độc lập, tự do và no ấm như kẻ chiến thắng thường rêu rao thì Trên Vòm Trời Lửa Đạn chắc không ra đời.
Trên Vòm Trời Lửa Đạn đến tay người đọc
hôm nay không phải vì nỗi đau chiến bại, hay mặc cảm thua trận của tác giả (giữ quê quê mất, giữ nhà nhà tan như Hà
Huyền Chi than thầm) mà là vì sự tức tưởi do đất nước quá lầm than. Trên Vòm Trời Lửa Đạn là một câu chuyện bi
hùng tác giả kể với nụ cười nhiều lần méo mó vì ước mơ một đất nước Việt Nam tự
do, dân chủ chẳng biết đến bao giờ mới là một sự thật.
Và đây là một phỏng đoán
khác. Ai đó, vì vô tình hay hữu ý, nói rằng bút ký của Vĩnh Hiếu tạo thêm đau
thương, moi vào vết thương đã ngủ yên trong dĩ vãng, thì đây là câu trả lời của
Vĩnh Hiếu: Viết vì còn bao nhiêu thiên kiến và ngộ nhận về sự chiến đấu anh
dũng của người lính chiến Miền Nam; viết vì ý nghĩa của sự hy sinh đó cần được
bày tỏ; viết để thắp nén hương lòng gởi đến các chiến hữu chốn nào đó, nơi Miền
Tây Phương cực lạc hay Nước Chúa vĩnh hằng. Trên
Vòm Trời Lửa Đạn chắc không phải là tác phẩm độc nhất -- tác phẩm của một đời
người -- mà còn nối tiếp…
3
Trên
Vùng Trời Lửa Đạn mở đầu bằng “Những Phi Vụ Khó Quên” với trận đánh ở cửa khẩu Bình Di, Bình Định và
kết thúc với “Phi Đoàn Thần Tượng: Giờ Thứ
25” với sự sụp đổ của Miền Nam. Giữa hai thời điểm đó, Vĩnh Hiếu có mặt nhiều
nơi từ đường mòn Hồ Chí Minh, Tân Cảnh, Dakto, Dak Pek, Polei Kleng, Charlie,
Kontum, Pleime, Benhet, của Tây Nguyên; đến An Lão, Tam Quan, Hoài Ân, Hoài
Nhơn, Bồng Sơn hay cái nôi của Liên Khu 5 cộng sản, Phù Cát, của tỉnh Bình Định; rồi Quảng Đức, Ban Mê Thuột,
Khánh Dương; và cuối cùng là Tỉnh Lộ 7B, nối liền Pleiku - Phú Bổn - Phú Yên, với
cuộc di tản hãi hùng của những ngày tàn cuộc Miền Nam. Vĩnh Hiếu đã đến nhiều
nơi anh cần phải đến, đã thấy, đã nghe, và đã sống thực sự từng giây phút tại
những nơi ấy. Chắc Vĩnh Hiếu chưa bao giờ lẩm nhẩm câu nói của vua Jules César,
“tôi đã đến, tôi đã thấy và tôi đã chiến thắng” (Je suis venu, j'ai vu, j'ai vaincu) dù chiến thắng đây không nhất
thiết phải là chiến thắng quân thù mà có thể hiểu là chiến thắng chướng ngại ngoại
cảnh, như núi cao rừng sâu, và bất ổn nội tâm, như sợ hãi hay nhu nhược. Tuy vậy,
anh có thể nói to rằng “tôi đã đến, tôi đã thấy và tôi đã sống” (Je suis venu, j'ai vu, j'ai vécu). Kinh
nghiệm sống dồi dào với nhiều cảm giác mạnh đó giúp anh viết từ nhiều góc cạnh
và rất phong phú, như cảnh bắn lầm quân bạn (trang 65-66), chở thường dân bị
thương trên tàu bay riêng V.I.P. riêng của Đại tá Tiểu Khu Trưởng (tr. 92-94), không
quân không bỏ anh em hay bạn bè (tr. 124-125), trực thăng bạn bị bắn nổ tung
trên trời (tr. 165), Đồi Charlie và Trung Tá Nguyễn Đình Bảo (tr. 164-173), phi
công bị phạt tù vì phạm kỷ luật nhưng không bị nhốt vì phải bay giết giặc (tr.
188-189), máy trực thăng bay bị mất cắp (tr. 230-31)…
Độc giả am tường cuộc chiến
Quốc Cộng 1945 - 1975 và từng tham khảo các sử gia đáng tin cậy phải nhận ngay
ra rằng Vĩnh Hiếu viết rất trung thực. Sự thật của một biến cố xã hội nào đó được
mô tả trong một cuốn tiểu thuyết hay ký sự có giá trị thường được coi như trung thực hơn là sự thật đó được trình
bày bằng những tờ trình hành chánh hay các dãy số thống kê; (lẽ dĩ nhiên đây
không phải là tờ trình hành chánh hay số thống kê của chính phủ Hà Nội, tờ
trình và số thống kê của những người mang bệnh thành tích). Đây là một đóng góp
của tiểu thuyết và ký sự về việc mô tả hiện thực xã hội một đóng góp tuy dễ cảm
nhận nhưng đòi hỏi lời giải thích với đối chiếu dài giòng. Bằng một giọng thân
mật, không quá phẩn uất hay quá bi thảm, Vĩnh Hiếu ghi lại những sự việc anh đã
thấy, đã nghe, và đã làm. Giọng thân mật đó cùng với cách nói giản dị giúp người
đọc bớt bị xáo trộn và dìu người đọc qua cảnh tan thương của “Ngày Chim Vỡ Tổ”
và “Phi Đoàn Thần Tượng: Giờ Thứ 25”. Sự thật Vĩnh Hiếu mô tả là những sự thật
không hề được chuẩn bị để kể lại cho hậu thế, nhưng là những cái mốc hiếm quý để
các sử gia với kỹ năng và lương thiện trí thức đối chiếu hay kiểm chứng các biến
cố lịch sử quan trọng khác.
Ngoài sự trung thực và phong
phú, Vĩnh Hiếu viết rất sống động và hấp dẫn; mỗi trận đánh anh ghi lại là một
cuốn phim gồm nhiều yếu tố tác động lẫn nhau với vài thay đổi bất ngờ đưa sự căng
thẳng lên cao từng giây từng phút. Sự sống động và hấp dẫn đó một phần do bản
chất sôi động của cuộc chiến và một phần do sự gan dạ, liều lĩnh và sự biến cải
chiến thuật của anh và đồng đội. Không biết việc biến cải này là một lối áp dụng
binh pháp cổ điển của Nhạc Phi, Tôn Tử, Ngô Vũ, Carl Clausewitz… vào chiến trận
trực thăng hiện đại có ghi trong sách vở, hay chỉ là phản ứng tức thời của người
lính Miền Nam, đa hiệu, tự do và biết suy luận (vì họ chẳng bao giờ bị xâm
mình, đầu độc hay uống thuốc kích thích). Trận đánh tại đài kiểm báo hải quân,
cửa khẩu Đề Gi, Bình Định dưới đây ghi lại tất cả nét đặc biệt đó:
“Trên
vùng hoạt động, hai chiếc võ trang luôn bay theo đội hình tác chiến, một chiếc
dẫn đầu… chiếc thứ hai bay ở một khoảng cách khá xa đủ thời gian để … yểm trợ
cho chiếc số một nếu bị bắn… Bay qua đường mòn HCM, tiếng động của chiếc trực
thăng đầu làm cho địch chuẩn bị… Tôi đổi chiến thuật… hai chiếc bay song song
và vượt qua cùng một lần…
Ánh
nắng gay gắt của mặt trời chênh chếch hướng đông… tôi lóe ra một ý định… tôi sẽ
dùng mặt trời làm phương tiện ngụy trang. Tôi sẽ đánh từ trên cao xuống, địch sẽ
bị chói mắt khi nhìn lên bắn trả…
Oành!
Oanh! Bụi đỏ tung mù mịt trên đỉnh núi…
Chiếc
tàu chở cấp chỉ huy bộ binh đang quan sát từ cao độ, la thất thanh trong tần số…ngưng
bắn… ngưng bắn… bạn bắn gần quân bạn…
…Gió
từ hướng đông… Tôi nói Thành trang bị tất cả bằng hỏa tiễn khói… đánh một phát
vào sườn núi…một màn khói che họng súng tụi nó…
Từng
cặp rocket tuôn ra… nổ tung… bung lên những cụm khói… tạo thành bức màn khói
dày đặc che khuất gần hết căn cứ hỏa lực… Tôi đẩy cần lái, chiếc trực thăng như
con đại bàng lăng xả vào con mồi….Oành!... Oành!...Oành!...
Trên
cao độ, chiếc Charlie đang bay vòng quan sát:
‘Đẹp
lắm…ngay trên target… dàn phòng thủ cũng như ổ cao xạ bị tiêu diệt… Đẹp lắm… bộ
chỉ huy quân bạn có lời khen…’” (trang 24-29).
Khác với anh lính bộ binh với
tầm nhìn giới hạn bởi cảnh vật chung quanh, Vĩnh Hiếu nhìn khu vực dưới vòm trời
hoạt động của chiếc trực thăng võ trang qua một không gian rộng lớn, bao gồm
dãy núi cao, khu rừng rậm hay quốc lộ uốn khúc… với nhiều biến chuyển tương ứng
và đồng thời trong một khoảng thời gian ngắn. Với lối nhìn đó, sự việc anh kể tạo
thành một bức tranh sống động trong trí người đọc, một màn ảnh đại vĩ tuyến với
lửa bùng cháy ở một góc làng, khói bốc lên từ bến sông, đoàn trực thăng bay
vòng vòng quanh đồi... Vì lý do đó, hầu hết các chuyện trong Trên Vòm Trời Lửa Đạn đều lôi cuốn người
đọc từ đầu đến cuối, hấp dẫn, hồi hộp; người đọc vì thế hội nhập vào các biến
chuyển của câu chuyện rất nhanh và sâu. “Mây
Giăng Lối Về” đầu đề rất nên thơ (chắc tác giả nghĩ đến mây giăng khắp lối em về) của câu chuyện
nghẹt thở khi phi đoàn bay về doanh trại trong chiều Cao Nguyên mây mù. Đây là
mấy tình tiết chính của câu chuyện:
Buổi chiều, phi đoàn Thần Tượng,
gồm hai chiếc trực thăng võ trang và năm chiếc tải quân, chuẩn bị rời Gia Nghĩa
bay theo Quốc Lộ 14 về Ban Mê Thuột; chuyến bay thường chỉ kéo dài chừng nửa giờ.
Cao Nguyên mùa mưa, thời tiết biến chuyển bất ngờ. Mới sau mười lăm phút bay, trời
bắt đầu sẩm tối, từng cột sương trắng từ tần mây xám xịt thòng xuống mặt rừng. Hợp
đoàn lầm lũi nối đuôi nhau. Trời càng tối, tần mây càng xuống thấp, đoàn tàu ẩn
hiện trong mây. Đại úy Huỳnh trưởng toán nhắc nhở: “Hợp đoàn, bay theo khoảng
cách an toàn. Trời mù quá, anh em cẩn thận”. Chẳng bao lâu, tiếng đại úy Huỳnh
lại vang lên: “Hợp đoàn, tần mây xuống đọt cây rồi, chuẩn bị quẹo lui về Gia
Nghĩa”. Con đường đất đỏ phía trước, con đường dốc cao dựng ngược, đột nhiên biến
mất trong sương mù, cả hợp đoàn mạnh ai nấy quẹo trên mặt rừng âm u, rồi bay về
phía phi trường Nhơn Cơ. Năm phút sau trời tối đen như mực, cả hợp đoàn hạ xuống
đường… ngủ qua đêm. Người đọc hồi hộp và lo âu cho số phận của hợp đoàn và rồi
thở phào nhẹ nhỏm khi hợp đoàn bay về Ban Mê Thuột an toàn trong nắng mai
(trang 232-238).
Phải thêm rằng Vĩnh Hiếu kể
chuyện rất có duyên. Anh biết ghi nhận những điều cần ghi nhận, đó là những sự
việc chuyển chở được nội dung câu chuyện và cảm nghĩ mà người kể chuyện muốn
chia xẻ với người đọc. Nhiều câu chuyện trong Trên Vòm Trời Lửa Đạn là những tùy bút, đoản văn người đọc thích
thú, đáng được đăng trên tạp chí văn nghệ. Và đây là câu chuyện bắn vịt trời và
bắt cá lóc:
Trên đường bay về Ban Mê Thuột,
vì muốn điều chỉnh lại độ chính xác của máy bắn hỏa tiễn nên khi bay ngang qua
mặt hồ, Vĩnh Hiếu chúi mũi tàu và bắn một quả rocket vào chính giữa hồ, hàng mấy
chục con vịt trời vô tình bị giết chết oan, nổi lều bều trên mặt nước. Đồng đội
của anh bay sát mặt hồ vớt vịt; vịt trời chết nên cá lóc cũng ngất ngư, họ vớt luôn
cả cá bỏ vào thùng đạn. Vịt và cá lóc làm dơ tàu; tàu phải dừng lại một con suối
nhỏ để rửa cho sạch trước khi về doanh trại. Tàu vừa hạ bên bờ suối, mấy cô gái
Thượng bộ ngực trần căng phồng, đang đùa giỡn trong nước, hoảng sợ bỏ chạy… Đêm
đó một bữa tiệc ngon lành với vịt luộc chấm nước mắm gừng và canh chua cá lóc.
Tiệc vui làm mọi người ngủ ngon. Nửa đêm, có tiếng lộp cộp… lộp cộp…Vĩnh Hiếu vớ
lấy cây súng P.38, bước về phía tiếng động: mấy chú cá lóc đang… vẫy vùng (trang
72-78).
Nhìn từ một góc cạnh khác,
chuyện bắn vịt trời, vớt cá lóc và vài chuyện tương tự khác là vài nét đơn sơ về
một phần của cuộc sống rất thực của người phi công trực thăng trong thời binh lửa.
Qua lối kể chuyện dí dỏm của tác giả, người đọc cảm nhận ngay rằng những chuyện
“bên lề” đó là những phút giây người phi công sống thực, sống tức thời ít suy
tính, sống cho hiện tại, sống để quên đi những giờ phút căng thẳng dưới súng
phòng không của địch và sự nhọc nhằn của những chuyến bay tiếp viện khẩn cấp. Vài
độc giả nghiêm khắc (và nhất là những độc giả với thiên kiến về người lính chiến
Miền Nam) có thể lên án những hành động đó là vi phạm quân kỷ hay phí phạm đạn
dược. Việc kết tội đó quả khó chống chế nhưng chỉ dựa vào luận lý mà không để ý đến thực tại, nghĩa là chỉ nêu lên vấn đề thuần túy luật pháp
(legality/légalité) của hành động bên lề mà bỏ qua khía cạnh thích hợp
(suitability/convenabilité) của chúng. Giây phút người phi công hái mấy trái
thanh long để giải khát (trang 214) hay bắn heo rừng bằng cây súng rouleaux với
sáu viên đạn (trang 216 - 217) là nét chấm phá của một cuộc sống vào sinh ra tử,
giúp người lính chiến tìm vài giây phút lãng quên hay lấy lại chút sức bình
sinh để tiếp tục bay và đối diện nỗi chết không rời. Những giây phút đó là những
trang điểm hay nốt hoa -- ornamental note hay embellishment -- trong một khúc
nhạc; những trang điểm đó (miễn là không quá lạm dụng) làm tăng sự luyến láy,
duyên dáng của dòng nhạc, không thể tách rời ra khỏi khúc nhạc.
Sau cùng, trong bút ký chiến
trường, dựng truyện ít khó khăn hơn thuật chuyện, vì óc sáng tạo -- khả năng
thiết yếu trong việc tạo dựng nhân vật, hoàn cảnh và diễn biến -- đóng vai trò
thứ yếu so với khả năng diễn tả thực tại. Tuy vậy, dựng truyện không phải chỉ là
ghi chép chiến sử đơn thuần mà là sự chọn lựa và sắp xếp các trận đánh tiếp nối nhau để vẽ nên toàn cuộc chiến; trong đó, mỗi trận đánh là một
mốc lịch sử và khi được nối kết với
nhau sẽ tạo thành một chiều dài lịch sử.
Vĩnh Hiếu đã vẽ được chiều dài lịch sử đó, chiều dài lịch sử đau thương của dân
tộc Việt Nam và Miền Nam.
4
Vĩnh Hiếu giàu tình cảm, dễ
rung động trước ngoại cảnh và liên tưởng khá mạnh; ý tưởng vì thế chiếm một phần
không nhỏ so với các sự việc thuật chuyện. Một điều đáng tiếc là những hình ảnh
đậm nét của cuộc chiến -- biểu tượng của chiến tranh-- vắng bóng trong hầu hết
các chuyện. Trong chuyện “Người Chết Dưới Chân Chúa” trong tập Dấu Binh
Lửa của Phan Nhật Nam, chiếc áo màu tím trên dây phơi áo quần tung bay
trong gió và xác cô gái nằm trên sàn gạch xa xa là một biểu tượng về sự đau
thương của cuộc chiến. Có thể vài giờ trước khi trút hơi thở cuối cùng vì mãnh đạn
đại bác, người con gái đã đem chiếc áo màu tím nàng yêu thích ra phơi; và có thể
vài ngày trước đó, người con gái đã mặc chiếc áo đó để vui chơi với bạn bè cùng
lứa tuổi. Trong Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên
Tĩnh (Tout est calme sur le front de
l’Ouest) của Erich Maria Remarque, đôi giày trận là một biểu tượng rất chọn
lọc. Kemmerich bị trọng thương và nằm bệnh viện, Muller đến thăm. Muller
xin đôi giày Kemmerich đang mang trong khi tim Kemmerich vẫn còn đập. Kemmerich
thừa hưởng đôi giày đó khi một anh lính không quân qua đời và nay Muller muốn
thừa kế tiếp theo. Đôi giày là một dấu hiệu u ám của sự chết chóc; đôi
giày chỉ hao mòn đôi chút khi đổi chủ, nhưng số mệnh người mang giày lại quá
mong manh trong cuộc chiến ác liệt. Vĩnh Hiếu ghi lại khá nhiều hình ảnh chiến
tranh, nhưng chỉ phác họa, không dừng lại thật lâu để
vẽ cho thật đậm nét. Có được vài biểu tượng Trên
Vòm Trời Lửa Đạn sẽ gây cảm giác mạnh và nhiều ấn tượng nơi độc giả; độc giả
vì vậy sẽ ghi nhớ Vĩnh Hiếu sâu đậm hơn và lâu dài hơn.
Một điểm khác, điểm này có
thể bắt nguồn từ cá tính khiêm nhường của tác giả. Đọc câu chuyện đầu tiên, “Cao Điểm 601”, trong tập bút ký, người đọc
rất ngỡ ngàng. Tác giả dùng ngôi thứ nhất “tôi” để thuật chuyện nhưng chẳng hề
cho độc giả biết cái “tôi” này là ai, từ đâu đến, vào ngày tháng nào. Đọc “Dấu Binh Lửa” của Phan Nhật Nam, ngay từ
mấy trang đầu độc giả đã nhận ngay ra rằng tác giả là một thiếu úy (“ông quan một”)
Nhảy Dù, 21 tuổi, mới ra trường. Được một anh lính khen “Thiếu Úy trẻ quá”, tác
giả nổi dóa và trả đủa ngay, “Trẻ quá không đi lính được à?”
Đọc thêm vài chuyện nữa của Vĩnh Hiếu, độc giả càng thêm ngỡ ngàng vì không
biết gì về phi đoàn trực thăng của tác giả, ngoài mấy mã số Charlie, Hồ 1, Hồ 2… Đọc Pilote de Guerre (Phi Công Thời
Binh Lửa) của Saint-Exupéry, ngay trang thứ hai độc giả đã nhận ra rằng tác
giả thuộc phi đoàn thám thính 2/33, chịu trách nhiệm toàn vùng Arras do Đức chiếm;
đóng; toàn thể nước Pháp trong năm 1940 chỉ có 50 phi công trinh sát, 23 trong
số 50 được thuộc phi đoàn 2/33; cơ hội sống sót của phi công rất nhỏ, 1 trên 5;
chỉ trong ba tuần đầu, 17 phi công của phi đoàn đã bị bắn rơi… Đọc Trên Vòm Trời Lửa Đạn mãi đến trang 232,
Chương 4, “Ngày Tàn Cuộc Chiến”, độc
giả (bình thường ít hiểu biết về Không Quân) mới nhận diện được một phi đội (gồm
5 chiếc trực thăng đổ quân và 2 chiếc trực thăng võ trang) thuộc Phi Đoàn Thần
Tượng 215, và tác giả là trưởng toán trực thăng võ trang, bay chiếc số 1, với
mã số Hồ 1… Nếu nhận biết rõ vài sự kiện chính yếu của Phi Đoàn và các phi đội trong
Phi Đoàn, dù được trình bày trơ trọi hay mang chút ít cái tôi ngay trong vài
trang đầu, độc giả sẽ dễ theo dõi câu chuyện và đón nhận các cảm nghĩ khá sâu sắc
của tác giả.
Mấy nhận định trên tuy phải giải thích dài giòng với nhiều trích dẫn, nhưng
không tai hại gì đến những trang chiến sử đáng nhớ với sự chiến đấu can trường
trong hoàn cảnh nghiệt ngã của người lính chiến Miền Nam mà tác giả muốn gởi đến
người đọc. Trên Vòm Trời Lửa Đạn dồi
dào sự kiện lịch sử và cảm nhận, vài cắt xén vài chỗ, vài hội nhập vài chi tiết,
tô đậm nét vài bức tranh… đủ làm cho tập bút ký trong kỳ tái bản dễ đọc hơn, đậm
đà hơn và màu sắc hơn.
*** ***
***
Charlie, Kontum, Pleime, Đồng Xoài, Bình Giã… giờ cách xa hơn nửa vòng địa
cầu và đã gần bốn mươi năm trôi qua, một thời gian khá dài để một người sinh ra
và khôn lớn, nhưng tiếng bom đạn của những chiến trường máu lửa đó vẫn còn vang
dội trong giấc ngủ và niềm uất hận vì thiếu súng đạn để chiến đấu vẫn còn cháy âm
ỉ trong tâm tư người Việt sống ly hương. Cảm ơn Vĩnh Hiếu. Cảm ơn anh đã nói lên
một cách trung thực và sống động sự chiến đấu can trường, tình người và lòng
nhân hậu của người lính chiến Miền Nam, người lính bị bức tử, bị lãng quên và bị
xét xử một cách không công bằng bởi những kẻ cận thị, kém suy xét, hay u mê về
mưu đồ xâm chiếm Miền Nam và hoàn cầu của toàn khối cộng sản.
Nguyễn Phụng
Raleigh, North Carolina tháng 5/2013